Một số nội dung cơ bản Luật_Phòng,_chống_bạo_lực_trong_gia_đình_(Việt_Nam)

Các hành vi bạo lực

Luật định nghĩa cụ thể hành vi bạo lực gia đình, đó là: "hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình".[1] Quy định như vậy nhằm tạo cơ sở phân biệt với hành vi bạo lực khác cũng như để xác định trách nhiệm và xử lý vi phạm trong bạo lực gia đình. Để xác định một hành vi là hành vi bạo lực gia đình, căn cứ vào hai điều kiện:

  • Thứ nhất, yếu tố "lỗi cố ý", tức là không phải bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong gia đình cũng được coi là bạo lực gia đình
  • Thứ hai, người bị tổn hại là thành viên gia đình, đó là những người có quan hệ do hôn nhân, huyết thống hoặc do nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Các thành viên gia đình đã ly hôn, hôn nhân thực tế (chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trước ngày Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực....) cũng áp dụng quy định của Luật này về bạo lực gia đình.[1] Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của Luật đối với các trường hợp này không nhằm mục đích khuyến khích hoặc tạo cơ sở pháp lý cho mối quan hệ giữa những người không có đăng ký kết hôn mà sống chung như vợ chồng mà ở đây cần hiểu, quy định như vậy có ý nghĩa đảm bảo cho tất cả nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình được hỗ trợ và bảo vệ đặc biệt.

Các hành vi bạo lực gia đình gồm có 4 nhóm hành vi lớn sau:[1]

  • Nhóm 1, nhóm hành vi bạo lực về thể chất hay thể xác: bao gồm hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng.
  • Nhóm 2, nhóm hành vi bạo lực về tinh thần: bao gồm các hành vi lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm hay cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng hoặc ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, cháu, giữa cha, mẹ và con, giữa vợ và chồng, giữa anh, chị, em với nhau, hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở, cưỡng ép tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
  • Nhóm 3, nhóm hành vi bạo lực về kinh tế: bao gồm chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình hay cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ hoặc là kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính.
  • Nhóm 4, nhóm hành vi bạo lực về tình dục: gồm có hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục.

Các hành vi bị cấm

Theo Điều 8 của Luật này, có 8 nhóm hành vi bị cấm sau:[1]

  • Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật Phòng, chống bạo lực trong gia đình
  • Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình.
  • Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình.
  • Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
  • Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.
  • Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật.
  • Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình.[1]

Theo điều 4 của Luật, người có hành vi bạo lực gia đình có nghĩa vụ:[1]

  • Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng, chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
  • Chấm dứt ngay hành vi bạo lực
  • Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị, chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, (trừ trường hợp nạn nhân từ chối)
  • Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật.

Nạn nhân

Nạn nhân bạo lực gia đình là người bị tổn hại về sức khoẻ, tính mạng, bị xúc phạm về danh dự, nhân phẩm và các tổn hại khác do hành vi bạo lực gia đình gây ra. Việc quy định các quyền của nạn nhân bạo lực gia đình nhằm hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền tự bảo vệ mình như:[1]

  • Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khoẻ, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình
  • Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc
  • Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật
  • Được bố trí nơi tạm lánh (nhà tạm lánh), được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác và các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Nạn nhân bạo lực gia đình cũng phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.

Bảo vệ nạn nhân

Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình được thực hiện thông qua các biện pháp bảo vệ, ngăn chặn như phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình, thực hiện cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình và các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình, cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình (cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân, sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân).[1]

Đối với biện pháp cấm tiếp xúc nạn nhân bạo lực gia đình, đây không phải là biện pháp xử lý vi phạm hành chính và chỉ được áp dụng trong trường hợp gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng của nạn nhân nhằm bảo vệ nạn nhân, phòng ngừa hậu quả nghiêm trọng hơn nữa có thể xảy ra. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã và Toà án là những cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc. Điều kiện để áp dụng quy định này gồm:[1]

  • Nạn nhân bị tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng.
  • Có đơn yêu cầu của nạn nhân, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình.
  • Người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc.

Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình. Thẩm quyền quyết định cấm tiếp xúc của Toà án được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự về các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ngoài ra phải huỷ hỏ biện pháp cấm tiếp xúc khi có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình hoặc khi người ra quyết định cấm tiếp xúc nhận thấy biện pháp này không còn cần thiết.[1]

Ngoài ra cần áp dụng các biện pháp khác để bảo vệ cho nạn nhân như:[1]

  • Chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
  • Tư vấn cho nạn nhân bạo lực gia đình.
  • Hỗ trợ khẩn cấp các nhu cầu thiết yếu và nơi tạm lánh.

Luật quy định cụ thể việc trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình. Các tổ chức, cơ sở có trách nhiệm trợ giúp bao gồm: Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình và cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình và địa chỉ tin cậy ở cộng đồng.

Phòng ngừa

Phòng ngừa bạo lực gia đình có mục đích tránh những hậu quả, thiệt hại có thể xảy ra khi có hành vi bạo lực gia đình. Luật quy định các biện pháp cụ thể trong phòng ngừa bạo lực gia đình tại chương II. Các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình bao gồm:[1]

  • Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình. Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm mục đích thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xoá bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam.
  • Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình. Hoà giải mâu thuẫn giữa các thành viên gia đình là trách nhiệm gia đình, người đứng đầu hoặc người có uy tín trong dòng họ, người có uy tín trong cộng đồng dân cư, của cơ quan, tổ chức nơi công tác hoặc sinh sống của các thành viên gia đình; tổ hoà giải ở cơ sở. Việc hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp tuân thủ các nguyên tắc tại Điều 12 của Luật này.
  • Tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình. Việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư nhằm làm chuyển biến nhận thức của người có hành vi bạo lực gia đình để họ không tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, biện pháp góp ý, phê bình chỉ áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên có bạo lực gia đình đã được tổ hoà giải ở cơ sở hoà giải mà tiếp tục có bạo lực gia đình. Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này là người đứng đầu cộng đồng dân cư (trưởng thôn, Trưởng làng, già làng, trưởng bản, ấp, phum, sóc, tổ trưởng tổ dân phố hoặc người đứng đầu đơn vị).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Luật_Phòng,_chống_bạo_lực_trong_gia_đình_(Việt_Nam) http://www.baoanhdatmui.vn/vcms/html/news_detail.p... http://www.baohoabinh.com.vn/217/49206/Tan_Lac__Nh... http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=19145 http://danviet.vn/18704p24c44/kon-tum-dua-luat-pho... http://giadinh.net.vn/18091p0c1005/luat-phong-chon... http://giadinh.net.vn/20101201095846586p0c1001/ty-... http://www.phapluatvn.vn/chinhtrixahoi/doisongxh/2... http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/171775/Du-luat-... http://tuoitre.vn/Chinh-tri-xa-hoi/Phap-luat/28420... http://vietnamnet.vn/chinhtri/2006/09/617202/